Cây Mỡ, có tài liệu còn gọi là Vàng tâm (danh pháp khoa học: Magnolia conifera), là một loài thực vật có hoa trong họ Magnoliaceae. Loài này được (Dandy) V.S.Kumar mô tả khoa học lại lần gần nhất được công nhận năm 2006, trước đó năm 1930 loài này được nhà thựa vật học Dandy mô tả lần đầu với tên gọi Manglietia conifera (phần thứ 2 trong tên gọi -conifera có nghĩa là hình chóp nón)
Cây gỗ nhỡ cao tới 20m. Thân đơn trục thẳng, tròn đều, độ thon nhỏ. Tán hình tháp. Vỏ nhẵn màu xám xanh, không nứt, nhiều lỗ bì tròn; lớp vỏ trong màu trắng ngà, thơm nhẹ. Cành non xanh nhạt gần thẳng góc với thân chính. Lá kèm bao chồi rụng sớm để lại sẹo vòng quanh cành. Lá đơn nguyên mọc cách, hình trái xoan hoặc trứng ngược, đầu và đuôi lá nhọn dần; phiến lá dài 12–15 cm, rộng 2–6 cm, mặt trên màu lục thẫm, mặt dưới nhạt hơn, hai mặt lá nhẵn, gân lá nổi rõ, có từ 12-15 cặp gân phụ. Cuống lá có vết lõm ở gốc dài bằng 1/5 cuống lá, cuống dài khoảng 2-3cm, mảnh. Hoa lớn, dài 6–8 cm, mọc lẻ ở đầu cành. Bao hoa có 9 hoặc 11 cánh, màu trắng, xếp xoắn thành 3 lớp; lớp ngoài cùng 3 cánh mỏng phớt xanh nhạt, cánh tràng hình ê-lip cao 4-5cm rộng 2,5-2,8cm, đỉnh tròn; lớp cánh tràng ở giữa hình trứng hoặc e-lip, dày hơn cánh tràng lớp ngoài cùng, cánh tràng cao 5-5,5cm, rộng 2,5-3cm; lớp cánh tràng bên trong cùng màu trắng, có thể có 3-4 cánh tràng, cánh tràng cao 4-4,5cm rộng 1,5-2cm . Nhị nhiều, chỉ nhị ngắn, nhị và nhụy xếp sát nhau trên đế hoa hình trụ, mỗi nhị cao 1,5-2cm, bao phấn khoảng 0,8-0,9cm. Bầu nhụy nổi lên, cao 1,5-2cm; nhụy gồm nhiều lá noãn rời xếp xoắn ốc tạo thành khối hình trứng. Quả đại kép hình trứng hoặc hình trụ. Mùa hoa vào tháng 4-6, mùa quả tháng 9-10.
Cây Mỡ phân bổ ở các đồi đất hoặc nơi ẩm ướt trong thung lũng, biên độ phân bổ tới đai cao 1300m. Chủ yếu phân bổ tự nhiên ở Việt Nam và miền Nam Trung Hoa (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, Hồ Nam).
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.